Giới thiêu

Thắng cảnh Bình Định

doanminhsang.blogspot.com

Thắng cảnh Bình Định

doanminhsang.blogspot.com

Thắng cảnh Bình Định

doanminhsang.blogspot.com

Thắng cảnh Bình Định

doanminhsang.blogspot.com

Thắng cảnh Bình Định

doanminhsang.blogspot.com

Thứ Tư, 29 tháng 8, 2018

Lợi ích chăn nuôi từ Thức ăn Thủy canh (fodder)

Qui mô nông hộ

 

 

Qui mô trang trại, gia trại

 

Thức ăn thủy canh (Hydroponic) là một sự lựa chọn phù hợp cho vật nuôi với thức ăn thủy canh sẽ giúp tinh chỉnh quá trình tiêu hóa vật nuôi của bạn và cho phép quá trình chăn nuôi giảm được chi phí và cải thiện hiệu quả chăn nuôi. 

Cho dù bạn chăn nuôi qui mô nông hộ, có một số lượng nhỏ các động vật tự cung tự cấp hay chăn nuôi kinh doanh, việc trồng thức ăn thủy canh với một Hệ thống Thức ăn đơn giản sẽ mang lại lợi ích cho gia định cũng như trang trại hay doanh nghiệp của mình. 

 

Đối với Gia súc: 

 

 

Với cỏ khô, ngũ cốc, ngô và đậu tương giá đạt mức cao kỷ lục, người chăn nuôi cần một lựa chọn thức ăn tốt hơn. Hệ thống thức ăn Thủy canh cho gia súc phát triển tốt hơn, giàu vitamin và khoáng chất, cho sản phẩm sạch, an toàn vệ sinh thực phẩm. 

 Lợi ích thức ăn mầm được trồng trong một hệ thống thức ăn Thủy canh bắt chước những lợi ích của đồng cỏ tươi và là một lựa chọn thức ăn thích hợp hơn cho động vật ăn cỏ. Động vật nhai lại có thể tiêu hóa thức ăn gia súc dễ dàng hơn và hiệu quả hơn so với ngũ cốc, cải thiện hiệu quả thức ăn, sữa và sản xuất thịt. Thức ăn mầm cũng cung cấp những ưu điểm này cho gia súc: 

Giảm số lượng tế bào soma 

Giảm sự xuất hiện của nhiễm toan và viêm vú 

Giảm pH trong dạ cỏ 

Tăng khả năng tiêu hóa 

Tỷ lệ sinh sản sớm hơn và tỷ lệ thụ thai cao hơn 

Tăng cân nhanh hơn và cai sữa dễ dàng hơn 

Gia tăng tuổi thọ ở bò sữa 

Sản lượng sữa cao hơn và hàm lượng butterfat 

Cải thiện sức khỏe móng 

 Thức ăn gia súc thủy canh là một thức ăn bổ sung cực kỳ hiệu quả cho gia súc. 

 

Đối với Gia cầm

 

Thức ăn gia cầm là một trong những thức ăn chăn nuôi đắt nhất trên thị trường, làm cho thức ăn gia súc được trồng thủy canh trở thành một lựa chọn dễ dàng cho các nhà sản xuất gia cầm. Thức ăn Thủy canh được coi là một khẩu phần hoàn chỉnh cho gia cầm và chứa tất cả các chất dinh dưỡng cần thiết, vitamin và khoáng chất cần thiết cho sản xuất thịt và trứng tối ưu. Hệ thống Thức ăn Thủy canh cho phép bất kỳ hoạt động chăn nuôi gia cầm có quy mô nào phát triển thức ăn riêng quanh năm trong một khu vực trồng nhỏ gọn, với lao động tối thiểu. Cho ăn thức ăn gia cầm, từ gà thịt đến gà đẻ, sẽ làm giảm đáng kể chi phí thức ăn và nâng cao chất lượng sản phẩm gia cầm. Lợi ích thức ăn mầm Gia cầm phát triển mạnh trên thảm thực vật tươi sống. Thức ăn cho thức ăn chăn nuôi sẽ dẫn đến lợi nhuận cao hơn trên toàn trang trại, từ việc giảm chi phí thức ăn bỏ túi để tăng dòng tiền từ các sản phẩm được bán làm thức ăn cho cỏ hoặc hữu cơ. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn Thủy canh làm cho nó trở thành một lựa chọn thức ăn đầy đủ cho gia cầm và sẽ cải thiện sức khỏe và hiệu suất tổng thể của chúng. Kết hợp thức ăn mầm vào chế độ ăn gia cầm sẽ dẫn đến những lợi ích sau: 

Trứng có chất lượng tốt hơn với màu đỏ đậm hơn 

 Tăng vị trứng Giảm phân dính 

Thịt chất lượng cao hơn với kết cấu tốt hơn 

 Cải thiện sức khỏe và mức năng lượng 

Đối với Dê 

 

Dê là động vật tò mò tự nhiên. Trong khi chăn thả, nó có khả năng ăn trên bất cứ thứ gì. Nó có thể vô cùng khó khăn để duy trì kiểm soát dinh dưỡng và chất lượng của sữa, thịt và các sản phẩm chất xơ trên một trang trại dê. Trồng thức ăn gia súc với một hệ thống thức ăn Thủy canh sẽ giúp các chủ trang trại và nông trại giành quyền kiểm soát chế độ ăn của hoạt động của vật nuôi. Thức ăn chăn nuôi sẽ đảm bảo rằng dê có được các chất dinh dưỡng mà chúng yêu cầu mà không lãng phí năng lượng bổ sung khi tiêu hóa. Thức ăn mầm có khả năng tiêu hóa cao và được ăn tươi nên có đầy đủ các chất dinh dưỡng thiết yếu, làm cho nó trở thành một chất bổ sung lý tưởng cho bất kỳ trang trại dê nào. Lợi ích thức ăn mầm làm cho Dê có một hệ thống tiêu hóa phát triển tốt. Thức ăn mầm tái tạo chặt chẽ những gì dê sẽ tự nhiên thức ăn gia súc trong tự nhiên và dễ tiêu hóa, tiết kiệm năng lượng mà có thể đã bị lãng phí trên thức ăn ít tiêu hóa hơn. Cải thiện hiệu quả thức ăn sẽ dẫn đến sản xuất sữa, thịt và cao hơn. 

Tiêu thụ thức ăn tươi sẽ cung cấp một số lợi thế cho dê, bao gồm: 

Tăng cân nhanh hơn và thịt chất lượng tốt hơn 

Cải thiện sản xuất và chất lượng sữa 

Cải thiện sức khỏe móng 

Cải thiện khả năng sinh sản 

Đối với Heo 

 

Trong nhiều thập kỷ, ngô, ngũ cốc và đậu tương đã được lựa chọn thức ăn tiêu chuẩn cho heo, nhưng với chi phí của các nguồn cấp dữ liệu liên tục tăng, các nhà chăn nuôi heo đang cần một sự thay thế hợp lý. Thức ăn gia súc thủy canh, do lợi ích về chi phí và dễ chế biến, Thức ăn Thủy canh cho phép các hoạt động của heo phát triển nguồn thức ăn mầm lành mạnh, có nhiều chất đạm, các chất dinh dưỡng cần thiết và các axit amin, chỉ với một 1000 đồng/kg. Lợi ích thức ăn Thủy canh là một lựa chọn thức ăn hoàn toàn có thể kiểm soát, cho phép nông dân tùy chỉnh nội dung dinh dưỡng của thức ăn mà họ cung cấp. Nó hỗ trợ trong quản lý sản xuất bằng cách cho phép nông dân toàn quyền kiểm soát sự qui mô của hoạt động chăn nuôi. 

Cho ăn thức ăn tươi, xanh hàng ngày sẽ giúp tăng cân nhanh hơn và cải thiện đáng kể chất lượng sản phẩm thịt lợn cho thị trường. 

Hệ thống sản xuất thức ăn mầm cho gia súc, gia cầm (fodder)

Tại sao lại là thức ăn gia súc
Với giá rơm khô và thức ăn cao và thời tiết không thuận lợi đồng cỏ đất đai, nông dân và chủ trang trại trên khắp đất nước đang cần một nguồn cấp tin cậy và giá cả phải chăng cho vật nuôi. Hệ thống Thức ăn mầm ủ cho phép bạn kiểm soát chế độ thức ăn chăn nuôi của mình và đưa toàn bộ gia tại, trang trại của bạn một bước gần hơn đến tính bền vững. 
Cho ăn thức ăn thủy canh sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho vật nuôi của bạn, mà là hầu như mọi khía cạnh của trang trại của bạn. Lợi ích cho chăn nuôi Thức ăn gia súc là thức ăn tự nhiên hơn và có thể so sánh với các thức ăn thô, hệ thống tiêu hóa của vật nuôi từ Bò sữa, bò thịt, heo, gia cầm đều dùng được tốt. Do khả năng tiêu hóa và sự sẵn có của các chất dinh dưỡng tăng lên, có rất nhiều lợi ích hơn khi cho ăn thức ăn gia súc và các chất cô đặc. Vật nuôi sẽ không chỉ khỏe mạnh hơn và có chất lượng cuộc sống tốt hơn mà chúng cũng sẽ có năng suất và sinh lời cao hơn. 


Một ký hạt giống sau 8 ngày sẽ cho năng suất cao gấp 7 lần




Nuôi trồng phù hợp với qui mô chăn nuôi trang trại hay hộ gia định








Được sinh trưởng trong điều kiện khống chế ở trong nhà nên phù hợp mọi điều kiện thời tiết



























Hãy bắt đầu bằng một nguồn thức ăn mới để giảm chi phí và đạt hiệu quả chăn nuôi cao hơn./.
St 

Các biện pháp “An toàn sinh học” trong chăn nuôi


Các biện pháp “An toàn sinh học” trong chăn nuôi là tổng hợp các giải pháp cụ thể của quá trình chăn nuôi nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các yếu tố bất lợi tác động đến vật nuôi, giúp vật nuôi phát triển khỏe mạnh, phát triển tốt và cho hiệu quả cao nhất.
 I- Quản lý vật nuôi mới nhập trại - ngăn ngừa sự xâm nhập của bệnh dịch 
Bệnh truyền nhiễm thường lan truyền trực tiếp từ con vật mang mầm bệnh sang con vật chưa mắc bệnh. 
Có 3 chỉ dẫn chung để ngăn ngừa dịch bệnh xâm nhập vào trại khi có lứa vật nuôi mới: 
 1. Đóng kín đàn vật nuôi
Nên áp dụng các nguyên tắc chung sau: 
- Sử dụng vật nuôi sinh trưởng trong trại của mình để duy trì và phát triển quy mô chăn nuôi 
- Không cho vật nuôi tiếp xúc "qua hàng rào" với động vật bên ngoài. 
- Không cho con đực từ ngoài vào để giao phối. 
- Không đưa vật nuôi ra ngoài trại rồi lại đưa vào trại. 
- Không nuôi hỗn độn nhiều lứa, nhiều giống và vật nuôi có nhiều độ tuổi khác nhau trong cùng chuồng, dãy. 
- Trong cùng một ngăn, một dãy nên thực hiện nguyên tắc "cùng nhập, cùng xuất", không nuôi gối đầu, luân chuyển trong một khu chuồng.

 2. Cách ly vật nuôi mới nhập trại 
Việc nuôi cách ly lứa vật nuôi mới nhập trại là điều bắt buộc, cần thực hiện các việc sau: 
- Sử dụng chuồng nuôi, hệ thống cấp thức ăn và bãi nuôi (nếu có) riêng biệt để nuôi lứa mới. - Không cho vật nuôi cũ và mới tiếp xúc nhau. 
- Chất thải đàn vật nuôi mới nhập không được đưa qua khu vực nuôi chung. 
- Nuôi cách ly đủ thời gian cần thiết (tuỳ thuộc vào loại vật nuôi) và theo dõi mọi biểu hiện của bệnh dịch. Kiểm tra bệnh dịch trước khi thả lứa mới vào chuồng nuôi chung.

 3. Biết rõ nguồn gốc lứa mới và qua kiểm tra thú y 
Cần biết rõ lai lịch của lứa mới, tình trạng bệnh dịch của nơi bán và các loại văcxin đã được tiêm vào vật nuôi.

 II- Hạn chế sự dịch chuyển trong trại của các vật chủ mang bệnh - ngăn ngừa bệnh dịch phát tán 
Mầm mống bệnh dịch như vi khuẩn, virus, nấm... có thể được mang theo từ người và các loại động vật khác vào trại và trong điều kiện thuận lợi sẽ phát triển và phát tán trong khắp trại. Cần thực hiện các biện pháp sau:

 1. Kiểm soát chim, động vật bay
 Chim bay quanh trại có thể mang mầm bệnh trong chân và hệ tiêu hóa. Để hạn chế chim trong trại: 
- Loại bỏ tất cả các lỗ, hốc nhỏ chim có thể làm tổ trong các mái nhà, bức tường, bụi cây trong trại. 
- Các lỗ thông hơi và quạt gió cần có lưới chắn. 
- Không cho chim đầu vào khu vực chế biến thức ăn chăn nuôi của trại. 
- Loại bỏ những vật gần chuồng nuôi mà chim có thể đậu.

 2. Kiểm soát loài gặm nhấm, chuột và chó, mèo 
Chuột và các loại gặm nhấm rất dễ mang mầm bệnh vào thức ăn của vật nuôi vì bản thân chúng là những ổ bệnh tiềm năng. Để hạn chế chuột và các loài gặm nhấm: 
- Các chuồng nuôi được thiết kế chống sự xâm nhập của các loài gặm nhấm. 
- Loại bỏ các tổ chuột, nơi trú ẩn của loài gặm nhấm trong trại nuôi. 
- Kho chứa thức ăn và bể nước cách xa chuồng nuôi. 
- Thường xuyên tổ chức diệt chuột và các loài gặm nhấm trong và xung quanh trại nuôi. 
- Kiểm tra sự di chuyển của chó và mèo trong trại. 
- Hạn chế chó mèo tiếp xúc trực tiếp với vật nuôi hoặc vào khu vực cho vật nuôi ăn. 
- Chó và mèo nuôi trong trang trại phải tiêm vắc xin. 3. Kiểm soát người Người có thể mang mầm bệnh trên giầy, quần áo và trên tay. Cần thực hiện các biện pháp:

+ Kiểm soát khách thăm: 
- Thông báo cho mọi nhân viên, khách thăm hoặc lái xe vào trại về các biện pháp phòng dịch và đề nghị họ hợp tác thực hiện. 
- Không khuyến khích khách thăm vào chuồng nuôi và nơi vật nuôi ăn. 
- Hạn chế tối đa khách đã đi thăm trại chăn nuôi khác 1-5 ngày trước khi đến trại mình. 
- Ngoài cổng trại nuôi treo biển "Cấm vào" và không cho người lạ tự do vào trại. - Không cho khách thăm tiếp xúc trực tiếp với vật nuôi. 
- Cho khách chỉ được vào những khu vực nhất định trong trại 
- Bắt buộc khách thăm rửa giầy khi vào và ra trại bằng cách nhúng chân vào hố chứa dung dịch sát trùng. 
- Cấp ủng cao su hoặc túi bó giầy bằng chất dẻo, áo khoác sạch cho khách.

 + Kiểm soát nhân viên: 
- Công nhân sau khi tiếp xúc với vật nuôi bằng tay phải rửa tay. 
- Công nhân làm việc trong chuồng nuôi phải mặc trang phục và đội mũ bảo hiểm lao động. Quần áo lao động trong trại cần được khử trùng trước khi giặt. 
- Hạn chế tối đa công nhân đi từ khu vực chăn nuôi này sang khu vực chăn nuôi khác trong trại hay tiếp xúc với quá nhiều nhóm vật nuôi trong một ngày. 
- Nhân viên trại nuôi không nên chăn nuôi thêm ở gia đình mình. Cán bộ thú y của trại không hành nghề thú y bên ngoài. 
- Không mang các loại thực phẩm sống vào khu vực quanh chuồng nuôi để nấu ăn. Nhìn chung không mang thức ăn có nguồn gốc sản phẩm thịt vào trại nuôi. 4. Kiểm soát phương tiện chuyên chở trong trại 
- Tổ chức đường vận chuyển thức ăn không qua khu vực bị nhiễm phân. 
- Không chung phương tiện vận chuyển phân với trại nuôi bên cạnh. 
- Không dùng phương tiện chở phân để chở thức ăn, trong trường hợp cần phải dùng thì cần rửa rất sạch trước khi chở thức ăn. 
- Bố trí kho thức ăn cách xa hố chứa phân, tránh làm đường đi chung đến hai nơi.

 5. Kiểm soát thức ăn và đồ dùng cho vật nuôi ăn 
- Mua thức ăn có chất lượng bảo đảm và đã được kiểm tra. 
- Tránh để thức ăn bị nhiễm hóa chất, chất bảo vệ thực vật và thuốc chữa bệnh trong quá trình bảo quản. 
- Không để thức ăn bị nhiễm phân. 
- Sắp xếp các loại thức ăn cẩn thận để không cho vật nuôi ăn nhầm thức ăn. 
- Bảo quản thức ăn đúng quy cách. 
- Cho vật nuôi uống nước có chất lượng đảm bảo, đã được khử trùng và luôn làm sạch hệ thống cấp nước.

 6. Làm sạch dụng cụ chăn nuôi 
- Mỗi khu chuồng nên có dụng cụ chăn nuôi riêng. Nếu cần luân chuyển trong trại thì phải rửa sạch và khử trùng khi đưa từ khu chuồng này sang khu chuồng khác. 
- Dụng cụ chăn nuôi mang vào hoặc mang ra khỏi trại cần được rửa sạch và khử trùng bên trong, bên ngoài và sau thời gian khử trùng cần thiết mới dùng.

 III- Quản lý vệ sinh và khử trùng 
- Ngăn chặn sự phát sinh của dịch bệnh Sự phát sinh của dịch bệnh từ bên trong trại nuôi giảm khi các biện pháp vệ sinh phòng bệnh được thực hiện:

1. Xử lý xác động vật 
Vật dụng chuyên chở xác súc vật có thể gây nguy hiểm cho người và các loại đông vật khác. Thậm chí đất, nước, không khí ở trong khu vực đó cũng phải được chú ý một cách đặc biệt. Nhằm giảm thiểu mức độ lây nhiễm nguy hiểm cần phải: 
- Đưa ra ngoài trại xác động vật chết trong vòng 48 tiếng (sau khi động vật chết).
- Gọi đội chuyên xử lý xác động vật chết đến để mang xác đi. 
- Nếu phải chôn trong trại thì cần chôn xác vật nuôi tối thiểu ở độ sâu 0,6m. 
- Vệ sinh và khử trùng toàn bộ khu vực ngay sau khi đã đưa xác vật nuôi đi. 
- Mặc quần áo bảo hộ khi vệ sinh và khử trùng chuồng trại lưu giữ xác vật nuôi. 
- Giữ xác vật nuôi nhỏ trong những thùng chứa cho đến khi đem vứt bỏ.

 2. Quản lý phân và chống ruồi nhặng 
Sự lây lan dịch bệnh thông thường từ phân, nước tiểu và từ xác chết của vật nuôi. Tác nhân trung gian có thể gây bệnh là từ thức ăn, nước uống và chuồng trại. Các biện pháp sau làm giảm bớt sự lây lan dịch bệnh qua phân vật nuôi: 
- Xây dựng và láp đặt hệ thống chứa phân nhằm ngăn chăn sự ô nhiễm môi trường phù hợp với các tiêu chuẩn về vệ sinh chăn nuôi. 
- ủ và chứa đựng phân đúng qui cách để loại trừ hầu hết các loại dịch bệnh từ vi khuẩn. 
- Thường xuyên lấy phân cũ trong các bể chứa để không cho động vật ký sinh và ruồi sống qua chu kỳ sống ở đó. 
- Hạn chế sự phát triển của ruồi bằng cách dọn phân, sử dụng các loai bẫy, các loại mồi và giấy dính ruồi, sử dụng thuốc diệt côn trùng.

 3. Khử trùng chuồng nuôi 
- Chuồng nuôi phải được làm vệ sinh hàng ngày và phải được khử trùng định kỳ theo chế độ phòng bệnh của thú y. 
- Sau khi xuất toàn bộ vật nuôi phải tiến hành khử trùng toàn bộ chuồng nuôi theo chế độ tổng vệ sinh và khử trùng trước khi nuôi lứa mới. 
- Trường hợp trong chuồng nuôi có vật nuôi bị chết vì bệnh dịch thì phải thực hiện chế độ khử trùng cấp bách theo hướng dẫn của thú y.

 4. Sử dụng các chất khử trùng 
Để khử trùng trại chăn nuôi cần sử dụng thuốc khử trùng có các tính chất sau: 
- Phải có tác dụng diệt khuẩn, nấm và virus. 
- Có tác dụng khử trùng rác hữu cơ (nhiễm phân). 
- Không bị giảm tác dụng khi pha vào trong nước có độ cứng cao 
- Lưu tác dụng trong một thời gian nhất định sau khi đã tiếp xúc với vật được khử trùng. 
- Có thể kết hợp sử dụng với các loại xà phòng hoặc chất tẩy rửa. 
- Có thể sử dụng cho các dụng cụ, thiết bị chăn nuôi (không ăn mòn, làm hỏng). - Không làm ô nhiễm môi trường và được phép sử dụng. 
- Thích hợp với mục đích sử dụng (vì thông thường không phải chất khử trùng nào cũng đều diệt được mọi vi sinh gây bệnh). 
Thực hiện tốt an toàn sinh học kết hợp với tiêm vắc xin cho vật nuôi là cơ sở đảm bảo cho thành công trong việc phòng chống dịch bệnh.

Thứ Năm, 23 tháng 8, 2018

10 điều về Nông nghiệp bền vững


10 điều về Nông nghiệp bền vững
 Đối mặt với biến đổi khí hậu và 9 tỷ miệng để nuôi vào năm 2050, các chuyên gia chia sẻ suy nghĩ của họ về tương lai của an ninh lương thực Các chuyên gia đã cùng các độc giả trực tuyến thảo luận về tương lai của nông nghiệp bền vững khi đối mặt với thay đổi thời tiết do biến đổi khí hậu và cạnh tranh ngày càng tăng đối với thực phẩm. Dưới đây là 10 điều chúng ta nên biết: 


1. Chúng ta không nên "chấp nhận" biến đổi khí hậu

Chỉ vì biến đổi khí hậu đang xảy ra và các hiệu ứng của nó đã được cảm nhận, chúng ta không nên từ bỏ những nỗ lực để giảm phát thải khí nhà kính. Phát thải khí nhà kính nông nghiệp, chiếm khoảng 25% lượng phát thải GHG toàn cầu, nhưng có rất nhiều điều có thể được thực hiện để giảm lượng phát thải này. Richard Waite, liên kết, Thực phẩm, Rừng và Nước Chương trình, Viện Tài nguyên Thế giới giải thích: "Bằng cách tăng cường nông nghiệp trên đất hiện có và bảo vệ các khu rừng còn lại, chúng ta có thể loại bỏ lượng khí thải từ thay đổi sử dụng đất. bò và các động vật nhai lại khác, từ phân bón và từ thực hành sản xuất lúa gạo, chúng ta có thể giảm đáng kể lượng khí thải từ sản xuất nông nghiệp. " 

2. Chúng ta không cần phải "chấp nhận" một thế giới với 9,6 tỷ người vào năm 2050

Dân số thế giới đang tăng lên, nhưng tỷ lệ sinh đã giảm nhanh chóng trong vài thập kỷ qua khi các bé gái được tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ giáo dục và sức khỏe sinh sản. Chính phủ châu Phi đã làm cho sức khỏe và giáo dục là một ưu tiên nhưng đầu tư lớn hơn có thể làm giảm thách thức dân số và nhu cầu về thực phẩm. Điều này đặc biệt quan trọng ở vùng cận Sahara châu Phi, nơi một nửa dân số tăng trưởng từ nay đến năm 2050 sẽ xảy ra. Một báo cáo gần đây từ WRI ước tính đạt được mức sinh thay thế (tỷ lệ sinh mà dân số chính xác thay thế từ thế hệ này sang thế hệ khác) ở vùng hạ Sahara châu Phi vào năm 2050 sẽ giảm nhu cầu lương thực khoảng 600 tấn kilometories (kcal) mỗi năm vào giữa thế kỷ. Điều này sẽ đóng 9% trong tổng số 6,500tn kcal / năm khoảng cách toàn cầu giữa thực phẩm có sẵn trong năm 2006 và thực phẩm cần thiết vào năm 2050. 

3. Chuyển đổi cây trồng là tương lai

Nhấn mạnh sẽ là về nông nghiệp thông minh khí hậu trong ngắn hạn, nhưng trong thời gian 10 đến 20 năm, trọng tâm sẽ là chuyển đổi cây trồng, Jason Clay, phó chủ tịch cấp cao, biến đổi thị trường, WWF nói . Khi biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến cây trồng thương mại, các giải pháp thay thế sẽ phải được tìm ra. Điểm đất sét mà lúa miến đã được thay thế cho ngô và ngô vì nó có thể được sử dụng trong thức ăn và sản xuất như bia. Tại Mexico, chính phủ đang tìm kiếm các giống ca cao để thay thế cây trồng cà phê, có thể không phù hợp để phát triển vào năm 2025 do tàn phá và nhiệt do hậu quả của biến đổi khí hậu. Với sự hỗ trợ kỹ thuật phù hợp và các gói di truyền tốt hơn, thực hành quản lý và đầu vào, chuyển đổi cây trồng có thể là cơ hội cho những nông dân nhỏ hơn đấu tranh với cây trồng hiện tại để nhảy vọt hiệu suất trước đó và trở nên hiệu quả hơn. 

4. Các đột phá nghiên cứu cần đầu tư nhiều hơn

Việc chuyển sang các giống cây trồng thích ứng có khả năng đàn hồi hơn đối với biến đổi khí hậu là khả thi, theo Chris Brown, tổng giám đốc về môi trường bền vững, tại Olam International, kinh doanh nông nghiệp . Nhưng đối với làn sóng đột phá nghiên cứu tiếp theo, FAO đã ước tính rằng chúng tôi sẽ cần chi tiêu hàng năm từ 45 đến 50 tỷ đô la trên toàn cầu. Nó hiện đang ở mức 4 tỷ đô la. 

5. Trồng cây trên trang trại có thể tăng sản lượng cây trồng

 Theo Waite, trong vài thập kỷ qua, nông dân ở Niger đã quản lý sự mọc lại tự nhiên của cây Faidherbia bản địa trên diện tích 5m. Các Faidherbia sửa nitơ trong đất, bảo vệ các lĩnh vực từ gió và xói mòn nước và đóng góp chất hữu cơ vào đất khi lá rụng. So với các trang trại thông thường trong nước, sản lượng ngô trong các hệ thống nông lâm kết hợp này có thể tăng gấp đôi và nông dân ở Ethiopia, Kenya và Zambia đang lưu ý.

 6. Nông dân quy mô nhỏ rất quan trọng đối với an ninh lương thực trong nước

 Nông dân quy mô nhỏ có một thị trường được bảo đảm và phát triển đối với các loại cây lương thực, nhưng Vương quốc Anh sản xuất ít hơn 24% lương thực so với tiêu thụ, theo lời Charles Tassell, nông dân và là người đồng sáng lậpAgriChatUK . Điều này xảy ra ngày hôm nay, khi các nghị sĩ cảnh báo rằng khả năng tự cung cấp thức ăn của Anh bị đe dọa bởi sự tự mãn . Trong 20 năm qua, sự tự cung tự cấp của Anh đối với thực phẩm trồng trong nước đã giảm từ 87% xuống còn 68%, trong khi sản lượng lương thực quan trọng nhất của nó, lúa mì, không tăng trong ít nhất 15 năm qua. Brown cho rằng các chính phủ, ngân hàng và các công ty phải phối hợp để hỗ trợ 500 triệu hộ gia đình nhỏ trên toàn cầu cho các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. Sự hỗ trợ này nên bao gồm quyền sử dụng đất hợp pháp, chính sách toàn cầu cho một sân chơi bình đẳng, tiếp cận vốn và thị trường, đào tạo có cấu trúc (cả nông nghiệp và phát triển kinh doanh), và đầu tư vào công nghệ và cơ sở hạ tầng. 

7. Trang trại đô thị phù hợp với cà chua, không phải bò

Oscar Rodriguez, Giám đốc Kiến trúc và Thực phẩm, nếu nông dân thành thị giảm nhu cầu vận chuyển, làm lạnh và đóng gói, và nguồn đầu vào từ các dòng rác thải của địa phương thì các trang trại thành phố có thể cung cấp một giải pháp thay thế bền vững cho trồng rau quả . Tuy nhiên, chăn nuôi và sinh hoạt đô thị làm cho một sự kết hợp ít thực tế hơn. 

8. Thịt đã tắt menu 

Để đạt được mức sinh thay thế, giảm mất thực phẩm và chất thải, giảm nhu cầu nhiên liệu sinh học cho cây lương thực và chuyển khẩu phần ăn của chúng ta, tất cả sẽ có cách để thu hẹp khoảng cách giữa thức ăn sẵn có và thức ăn cần thiết. Bất kỳ sự thay đổi có ý nghĩa nào đối với các mô hình tiêu thụ và các tác động môi trường của sản xuất lương thực, sẽ phải liên quan đến việc loại bỏ các sản phẩm động vật ra khỏi thực đơn, đặc biệt là thịt bò. Chris Hunt, giám đốc chương trình thực phẩm của GRACE, chỉ ra các chiến dịch tiêu dùng như Meatless Monday làm bằng chứng về xu hướng đúng hướng.

9. Định nghĩa của một nông dân "tốt" là văn hóa phức tạp

Tiêu chí tốt cho một người, có thể gây sốc cho người khác, Louise Manning , giảng viên cao cấp về quản lý sản xuất thực phẩm, Đại học Nông nghiệp Hoàng gia nói. Xét về phúc lợi động vật, mật độ thả giống có thể được coi là một chỉ báo về hiệu suất tiêu cực nhưng về mặt quản lý tài nguyên, một yếu tố tích cực. 

10. Mọi người đều có một vai trò để chơi

Báo cáo của WRI về việc tạo ra một tương lai thực phẩm bền vững ước tính rằng chúng ta cần khoảng 70% thực phẩm vào năm 2050 so với hiện nay để cung cấp cho mỗi một trong 9,6 tỷ dân số thế giới với lượng tiêu thụ hàng ngày là 3.000 calo. Đó là một thách thức lớn, nhưng không giống như những thách thức về tính bền vững khác, mọi người đều có thể tham gia vào giải pháp. Mọi người đều cần ăn, vì vậy có thể giảm mất thực phẩm và lãng phí, ăn chế độ ăn ít tác động hoặc đầu tư vào sản xuất bền vững - các quốc gia, công ty và người tiêu dùng có thể tạo sự khác biệt. Được bao quanh bởi sự phong phú, thách thức là làm cho người tiêu dùng quan tâm. Về điều này, Liz Bowles, người đứng đầu trang trại tại Hiệp hội Đất , chỉ ra rằng nếu mọi người cố gắng tự trồng rau thì sẽ mang về nhà sản xuất thực phẩm khó khăn như thế nào. 
ST internet

Thứ Tư, 22 tháng 8, 2018

Nuôi trùng quế trong chuỗi nông nghiệp bền vững

         
Vai trò của Trùng quế trong chuỗi Nông nghiệp
Hiện nay ở Việt Nam thực phẩm kém chất lượng ở mức đáng báo động nên người tiêu dùng lo lắng tìm kiếm các thực phẩm sạch cho bữa ăn của mình. Việc nuôi trùng quế có ý nghĩa trong việc cải tạo đất, cho ra sản phẩm nông nghiệp sạch, tăng thu nhập cho người nông dân ...
        Có cầu ắt có cung, làm nông nghiệp sạch đã trở thành xu hướng vài năm gần đây, đặc biệt là nông nghiệp hữu cơ. Khi xu hướng nông nghiệp hữu cơ lan rộng thì các ngành công nghiệp phụ trợ như phân bón, thuốc bảo vệ thực phẩm, hạt giống … cũng thay đổi theo. Và ngành trùn quế từ nhiều năm trước chỉ là vài hộ nông dân nhỏ lẻ nuôi trùn lấy thức ăn cho hải sản và lươn thì giờ đã lan rộng trên cả nước với mục đích tạo ra nguồn phân bón hữu cơ chứ không phải chỉ lấy trùn làm thức ăn chăn nuôi nữa.
         Từ cách đây hơn 5 năm, khi tôi bắt đầu tiếp xúc với trùn quế thì đơn giản đó chỉ là một cơ duyên, nhưng để đi tiếp con đường này, kiên nhẫn với nó, nỗ lực với nó thì đó là một sự lựa chọn. Vào thời khi tôi chọn kinh doanh trùn quế, thì đã có một số người bạn làm trong lĩnh vực nông nghiệp nói với tôi nên dừng lại, vì nhiều năm trước cũng đã rộ lên việc nuôi trùn xong rồi lại dẹp đi hết, vì thị trường không ổn định, trùn tươi do thị trường lươn va thủy hải sản lên xuống nên cũng thất thường theo, còn phân trùn thì không bán được mà nguyên nhân sâu xa là do chất lượng phân không được ổn định. Nên lúc Đặng Gia Trang ra đời là gần như đi tiên phong cho việc “khởi động” lại ngành nuôi trùn. Khởi nghiệp từ số 0 về mọi thứ, ko vốn, chưa từng khởi nghiệp trước đó, chưa từng thực sự làm nông nghiệp trước đó, sau bao nhiêu lần bầm dập, nhưng rồi tôi vẫn quyết tâm theo đuổi đến cùng, vì một phần có thể tôi là người nhẫn nại và kiên định, phần lớn nữa vì tôi nhìn thấy ý nghĩa của việc phát triển ngành trùn quế của Việt Nam, tôi có niềm tin rằng chỉ sau 5-10 năm nữa, ngành nuôi trùn sẽ thành phổ biến như nhiêu ngành chăn nuôi khác, giống như cây cà phê nhiều năm trước cũng bắt đầu từ việc một vài người trồng, sau đến bây giờ cây cà phê đã trở thành cây công nghiệp ở Việt Nam. Cho đến bây giờ thì rất nhiều nơi ở Việt Nam, những vùng có nguyên liệu phân bò, phân heo đã có nhiều trang trai nuôi trùn mọc lên, và những người làm nông nghiệp cũng dần quen với một loại phân mới là phân trùn quế. Và có lẽ các cơ quan ban ngành các địa phương cũng nhìn thấy ý nghĩa của việc phát triển ngành nuôi trùn này, nên đã có một số động thái trong việc ưu đãi, hỗ trợ và phát triển ngành. Vậy những ý nghĩa và giá trị mang lại của ngành nuôi trùn ở Việt Nam là gì? Những ý nghĩa chung chung thì có nhiều nhưng tôi tóm lại 3 ý nghĩa to lớn nhất Xử lý vấn đề môi trường. Bài toán xử lý phế thải của chăn nuôi vẫn là một vấn đề của Việt Nam. 
         Ở các công ty chăn nuôi heo lớn thì có phương án xử lý là làm hầm Biogas nhưng thực tế thì sau nhiều năm, vấn đề môi trương vẫn chưa được đảm bảo hoàn toàn, trong khi đó chi phí đầu tư làm hầm biogas khá cao, nguồn điện năng thu được cũng ko được tận dụng hết, vẫn để lãng phí, vì vậy thật chưa hiệu quả kinh tế. Thay vì làm hầm biogas thì việc xử lý phế thải bằng nuôi trùn quế đem lại về hiệu quả kinh tế hơn nhiều đồng thời vấn đề về xử lý môi trường được đảm bảo hơn. Gia tăng giá trị cho nông nghiệp Việt Nam. Thay vì bán được 1 kg phân chuồng với giá 1 đồng, thì giờ có thể bán được cả phân trùn và trùn tươi với giá 2 đồng, 3 đồng, đồng thời tạo thêm các công ăn việc làm cho bà con nông dân. Cải tạo đất canh tác nông nghiêp Việt Nam, gia tăng chất lượng nông sản Việt Điều này có giá trị to lớn đối với đất nông nghiệp Việt Nam đang ngày một thoái hóa bạc màu do thói quen canh tác bằng hóa học nhiều năm nay. Chất lượng nông sản thì xuống thấp, giá bán không được cao. Việc sử dụng phân hữu cơ thay thế một phần phân hóa học là cần thiết hiện nay để duy trì nguồn đất canh tác đồng thời để gia tăng chất lượng nông sản. Phân trùn quế có thể nói là một nguồn phân hữu cơ tự nhiên tốt nhất hiện nay, không phải chỉ bởi các dinh dưỡng đa dạng và cân đối, mà bởi vì khả năng cải tạo đất số 1 của nó, khả năng giữ độ ẩm, với đa dạng các chủng vi sinh vật có ích từ tự nhiên, các kén trùn đưa vào đất sẽ sinh sôi thành trùn, tạo thành những “cỗ máy” cải tạo cho đất. Tôi thỉnh thoảng hay nói vui với một số người bạn là chúng tôi đang làm công việc ” Mang trả lại con trùn cho đất”.
      Chất lượng nông sản tăng lên sẽ góp phần nâng cao giá trị nông nghiệp Việt Nam. Với các ý nghĩa to lớn trên, chúng tôi mong các cơ quan ban ngành nhà nước có liên quan đưa ra nhiều hơn nữa các chính sách hỗ trợ, ưu đãi và ủng hộ để ngành nuôi trùn Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn, cũng là phù hợp với xu hướng chung của thế giới. 
 Theo:Đặng Thị Thực – CEO Đặng Gia Trang

Bhaskar Save đối nền nông nghiệp hữu cơ Ấn Độ



 Bhaskar Save - Ảnh internet

Bhaskar Save ngày nay nổi tiếng khắp thế giới bởi những triết lý canh tác hài hòa với thiên nhiên và hoàn toàn không cần đến sự can thiệp của hóa chất.



          Bhaskar Save sinh năm 1922 trong một gia đình có truyền thống làm nghề nông ở một ngôi làng thuộc Dihri, bang Gujarat, tây bắc Ấn Độ. Bhaskar Save Đến với nông nghiệp hữu cơ từ việc sớm nhận ra cái vòng luẩn quẩn của việc sử dụng phân hóa học, Ông có tuổi thơ hạnh phúc và khi nhớ về những năm tháng trưởng thành của mình, ông nói: “Trồng trọt là một phần tự nhiên, thuộc về văn hóa của cuộc sống, và thay đổi tùy theo mùa. Nó là một nghề đẹp đẽ, chứ không phải một cuộc vật lộn đầy những khổ sở và lo lắng mà các phương thức canh tác hiện đại đã biến nó thành như vậy.” 
        Bhaskar Save lớn lên trên đồng ruộng của gia đình, trồng những nông sản truyền thống như lúa, đậu và rau. Trong hơn 10 năm là nhà giáo, ông vẫn thường xuyên làm việc ngoài đồng tất cả các ngày từ 6 giờ đến 10 giờ. Giã từ hóa chất Năm 1951, cùng với việc làm hệ thống tưới tiêu, ông trở thành người đầu tiên ở làng sử dụng phân bón hóa học. Ông bắt đầu có những vụ mùa bội thu tới mức giám đốc một công ty phân bón đã trao cho ông quyền đại diện để tiếp thị sản phẩm! Ông đã bị thuyết phục, cũng như đi thuyết phục người khác về hình thức trồng trọt mới và trở thành “người nông dân kiểu mẫu” trong những ngày đầu của “cuộc cách mạng Xanh”. Giữa những năm 1950, ông mua một héc-ta đất thích hợp cho việc trồng lúa. Đây chính là nền tảng cho nông trại Kalpavruksha hiện nay của ông. Nhưng Save sớm nhận ra rằng, ông đã đi vào vòng luẩn quẩn với việc sử dụng phân hóa học. Để tránh giảm sản lượng, ông phải sử dụng ngày càng nhiều phân bón vô cơ. Mahatma Gandhi có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Bhaskar Save từ rất sớm. Những ý tưởng của Gandhi đã tạo cảm hứng cho “thí nghiệm hữu cơ với sự thật” của Save – như cách ông gọi sự chuyển đổi của mình sang canh tác hữu cơ. Ban đầu, năng suất cây trồng giảm đáng kể. Nhưng – cũng chính lúc đó – ông nhận ra rằng, ông đã được hưởng lợi từ việc giảm chi phí sản xuất, khiến ông thu lợi nhuận ngay trong năm đầu tiên chuyển hướng canh tác (Ông không chuyển đổi toàn bộ trang trại sang canh tác hữu cơ ngay. 
           Trước hết, với những sản phẩm rau để bán, ông vẫn tiếp tục sử dụng phân bón hóa học). Kết quả, ông đã gần như nhân đôi số ruộng và xây được một căn nhà nhỏ cho gia đình mình. Đối mặt với những khó khăn trong tiêu thụ các sản phẩm rau (do thừa cung), ông chuyển sang trồng cây ăn quả và cây lấy hạt. Cuối cùng, ông chấm dứt sử dụng mọi chất hóa học trên nông trại. Ngày càng có những phát triển đa dạng trên cánh đồng của ông: không chỉ có chuối, ông còn trồng cả dừa và đu đủ.
 Ông đã xây dựng hệ thống luống đánh cao, được ngăn cách bởi các rãnh tưới tiêu, để trồng cây. Dần dần, hình thức canh tác hữu cơ đem lại năng suất cao hơn (trong khi chi phí lao động đầu vào giảm đáng kể), dẫn đến thu nhập tăng. Save chia sẻ kiến thức sâu rộng của mình đến những người khác bằng cách viết báo và góp phần vào việc xuất bản các ấn phẩm được tài trợ bởi Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc. 
Trong ba thập kỉ qua, hàng chục bài báo đã viết về Bhaskar Save vàphương thức canh tác hữu cơ của ông – không chỉ bằng tiếng Anh mà còn bằng tiếng Marahati, Gujarati, Hindi và một số thứ tiếng khác. Triết lý của Save Nói về phương pháp canh tác của mình, Bhaskar Save cho rằng trồng trọt phải đáp ứng các nhu cầu của mọi sinh vật sống bởi bản thân tự nhiên đã luôn luôn tự cung cấp mọi thứ chúng ta cần. Canh tác hữu cơ dựa trên sáu yến tố cơ bản Đất- Nước – Không khí – Giống thực vật – Côn trùng và vi sinh vật – Các giống động vật, mà trong đó con người là một phần. Mục tiêu là để con người được sống hạnh phúc mà không phải ăn bữa trước lo bữa sau. Sự tương tác của sáu yếu tố tạo nên một hệ thống ổn định, có thể tự sinh sản. Save cho rằng, điều đầu tiên cần phải hiểu là không được làm gì ảnh hưởng đến sáu yếu tố của cuộc sống và không can thiệp vào các nguyên tắc sau: 1. Không có sinh vật nào là kẻ thù của nhau. 2. Về bản chất, không có gì là vô dụng – tất cả mọi vật đều đóng một vai trò riêng, kể cả cỏ dại! 3. Hoa lợi của tự nhiên không giống như việc sản xuất một sản phẩm. Tất cả các phần của hoa lợi đều có thể sử dụng được, ví dụ như năng lượng sinh khối, sau khi chúng ta đã dùng các loại quả và hạt của cây, sinh khối có thể được sử dụng để tái tạo đất. 4. Con người có quyền gieo hạt và quả, nhưng chỉ có khoảng 10 – 15% những gì được gieo sẽ phát triển. Còn lại 85 – 90% có thể được sử dụng để tái tạo độ màu mỡ của đất. 5. Phần còn lại của cây trồng, các sinh vật sống của lòng đất có quyền sử dụng. 6. Nông nghiệp là một hoạt động thiêng liêng, và vì nó chăm sóc cho trái đất của chúng ta, nó khác biệt với các ngành kinh doanh khác. Tất cả hoa lợi của bạn đều là lợi nhuận. Bhaskar Save đã nhận được nhiều danh hiệu và giải thưởng khác nhau, trong đó phải kể đến giải thưởng “Nông dân trồng dừa giỏi nhất” của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Ấn Độ. Ông thường xuyên được mời tham gia tư vấn và giảng dạy. Nhưng việc ông thích nhất là nói chuyện với những người nông dân tập sự. Mỗi thứ bảy, lại có rất đông người đến gặp Save và thăm nông trại của ông để học hỏi những kiến thức về canh tác hữu cơ. 
          Những kiến thức, kinh nghiệm của Bhaskar Save đều được ghi lại Bharat Mansata – một nhà khoa học tình nguyện đi theo Bhaskar Save từ hơn 30 năm nay – ghi lại. Bharat Mansata cũng là người đứng tên xuất bản mọi ấn phẩm của người nông dân tài hoa này. Năm 2006, Bhaskar Save đã viết và xuất bản một loạt bức thư ngỏ với các chứng cớ mạnh mẽ gửi đến M.S. Swanimathan, người được coi là cha đẻ của “cuộc cách mạng Xanh” Ấn Độ và cũng là Chủ tịch Ủy ban Nông dân Quốc gia. Sự phê phán của Save dành cho Swanimathan rất dữ dội và… dũng cảm: “Ngài là cha đẻ của “cuộc cách mạng Xanh” Ấn Độ, cái đã mở tung cửa cho các chất độc từ hóa chất nông nghiệp, tàn phá các mảnh đất và cuộc sống của hàng triệu người nông dân Ấn Độ trong suốt 40 năm qua.” Mặc dù lên tiếng chỉ trích, nhưng Save vẫn giành được sự kính trọng của Swanimathan.Swanimathan đã viết thư trả lời Save: “Tôi ngưỡng mộ công việc của ông từ lâu và tôi rất biết ơn về những gợi ý chi tiết, […] những nhận xét và kiến nghị có giá trị. Chúng tôi sẽ xem xét chúng.” Những bức thư của họ sau này được xuất bản dưới tên gọi “The great agricultural challenge” (Thách thức lớn về nông nghiệp) và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Giải thưởng One World Award của IFOAM1 tôn vinh Bhaskar Save như một trong những người tiên phong và có ảnh hưởng nhất trong phong trào canh tác hữu cơ. Với bề dày sáu mươi năm kinh nghiệm, ông đã truyền cảm hứng và động viên ba thế hệ nông dân Ấn Độ đi theo hình thức canh tác này. Save là minh họa cho sức mạnh của việc giáo dục theo hướng “từ nông dân đến nông dân” và thật không có gì quá khi người ta ca ngợi ông như “Gandhi của nền nông nghiệp hữu cơ Ấn Độ”. Đất: Đất đang sống và những người theo đạo Jain đều có ý thức sâu sắc về điều này. Hàng triệu vi sinh vật tồn tại trong lòng đất. Mỗi sinh vật đều có quyền được sống, vì thế chúng không nên bị tiêu diệt bởi thuốc trừ sâu hay thuốc diệt cỏ. Chúng tôi chủ trương canh tác một cách tối thiểu trên mảnh đất đã được phát triển để sử dụng từ khi chúng tôi mới bắt đầu, không nên sử dụng đất quá mức (mặc dù rất khó để có thể đạt được điều này!) Hãy nghĩ đến những cánh rừng, chúng tự tái sinh và tạo ra bầu không khí trong lành và có thể tự bảo vệ mình khỏi những xáo trộn mà con người gây nên. Đây là một ví dụ của việc thiên nhiên tự bảo vệ mình. Trong rừng có hổ và rắn như những người bảo vệ nhưng hãy nghĩ đến cả những chú voi và bàn chân to lớn của chúng đã giúp làm đất trở nên tơi xốp. Thiên nhiên tự vệ và thiên nhiên bảo vệ. Cỏ dại: Cỏ dại là một phước lành. Chúng có thể bảo vệ mặt đất khỏi bị xói mòn do nắng mặt trời, mưa và gió. Hãy quản lý và kiểm soát cỏ dại, chứ không phải tiêu diệt chúng. Hãy xem cỏ dại là lớp mùn cho mặt đất, sẽ là đất trọc nếu bạn diệt trừ cỏ dại. Như cái đầu của một người hói, tóc/cây sẽ không mọc trở lại. Cỏ dại sẽ không gây hại nếu như nó không cao hơn cây trồng của bạn. Các công đoạn của trồng trọt.
            Hoạt động trồng trọt gồm năm công đoạn: Làm đất – Bón phân – Tưới nước – Bảo vệ cây trồng – Làm cỏ. Người nông dân có thể cần nước để tưới nhưng thường thì tự nhiên sẽ tự chăm sóc tất cả những mảng được đề cập phía trên. Với phương thức canh tác hữu cơ, bạn chỉ cần 10 – 15% nước so với các cách thức trồng trọt truyền thống. Làm đất: Giun đất thật tuyệt vời! Một ngày, chúng trở lên mặt đất 10 – 15 lần để hít thở và chính nhờ vậy mà chúng đã giúp đất thông khí. Giun đất tiêu thụ một lượng vi sinh vật bằng 1.5 lần trọng lượng cơ thể chúng mỗi ngày và khi tiêu thụ các vi sinh vật, chúng giải phóng vào lòng đất các khoáng chất cần thiết như nitơ, magiê, v.v. 
Thông qua sự bài tiết của giun đất, mặt đất trở nên màu mỡ và nhờ quá trình hô hấp của loài vật này mà mặt đất được cung cấp đủ ôxi và độ ẩm. Bón phân: Các chất phân hủy rất quan trọng cho sự màu mỡ và độ ẩm của đất. Chất hữu cơ không phải là thức ăn cho đất nhưng là thức ăn cho các loài động vật, mà phân của chúng giúp nuôi dưỡng đất. 
             Tưới tiêu: Đất cần ít nước hơn bạn tưởng. Ta cần độ ẩm, chứ không phải lũ lụt, ngập úng hay tưới quá nhiều. Đất cần đá để thông khí và tiếp nhận nước một cách vừa phải. Bạn không nên tưới quá nhiều, vì như thế đất sẽ mất ô xi và cây trồng sinh trưởng không tốt. Rễ cây sẽ vươn dài tương ứng với độ rộng của tán lá phía trên mặt đất. Nên tưới nước dưới bóng râm và tưới ở vị trí tương ứng với mép của tán lá, để kích thích rễ cây phát triển. Bảo vệ cây trồng: Trong số 1,25 triệu loài côn trùng thì chỉ có 1% tấn công thực vật. Thuốc trừ sâu có khả năng diệt trừ các loài côn trùng gây hại, nhưng không loại bỏ được trứng của những loài này, cho nên cũng không đạt hiệu quả cao. 
          Thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu không được khuyến khích trong canh tác hữu cơ. Xen canh là cách thức tốt hơn để bảo vệ cây trồng bằng việc trồng những giống cây thu hút sâu bọ ra khỏi các cây trồng chính. Những giống cây có thể sử dụng cho mục đích này có cây Neem (có vị chát) và cúc vạn thọ (khiến côn trùng vô sinh). 
ST internet

Thứ Hai, 20 tháng 8, 2018

Giới thiệu


Xin chao day la trang blog cua CỬA HÀNG THUỐC THÚ sang-thom



Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2018

Hiện tượng Alfamart

Alfamart - “thần tượng” của Bách Hóa Xanh: Vượt mặt chợ và tạp hóa, đá văng 7-Eleven khỏi sân nhà, tham vọng phủ khắp Đông Nam Á - Ảnh 1.Hiện là một trong những chuỗi bán lẻ lớn nhất Indonesia, Alfamart là sự kết hợp giữa chợ truyền thống và cửa hàng tiện lợi, giữa sản phẩm tươi sống, không gian sạch sẽ, dịch vụ chuyên nghiệp, và mức giá “thấp hơn ở chợ”.

Alfamart – Con đường từ 1 lên 10.000
Ông chủ Alfamart - Djoko Susanto bắt đầu kinh doanh từ năm 17 tuổi với nhiệm vụ quản lý tiệm tạp hóa của gia đình trong một khu chợ truyền thống tại Jakarta. Với tài kinh doanh của mình, Susanto nhanh chóng mở một công ty thương mại & phân phối cho cả thành phố.
Vào năm 1989, Susanto nắm được tương lai của ngành bán lẻ và cho ra đời chuỗi siêu thị mini Alfa Minimart. Chỉ trong 6 năm, mô hình này đã mở được 1.293 cửa tiệm và đổi tên thành Alfamart.
Đến năm 2009, Alfamart xuất hiện trên sàn giao dịch chứng khoán với hơn 3.000 chi nhánh khắp cả nước, đa dạng hóa mô hình kinh doanh với chuỗi cửa hàng tiện lợi Lawson và siêu thị cỡ lớn Alfamidi.
2014 là cột mốc quan trọng khi Alfamart đã sở hữu hơn 10.000 cửa hàng với doanh thu vượt ngưỡng 3 tỷ USD và 2,5 triệu khách mỗi ngày. Mong muốn "đánh chiếm" cả Đông Nam Á, Alfamart quyết định đầu tư qua "hàng xóm" Philippines sau nhiều rắc rối pháp lý tại Việt Nam.
Trong khi đó, vào năm 2016, toàn bộ 136 cửa hàng 7-Eleven tại Indonesia buộc phải đóng cửa do thua lỗ thường xuyên và không cạnh tranh được với các thương hiệu nội địa, tiêu biểu là Alfamart.
Alfamart - “thần tượng” của Bách Hóa Xanh: Vượt mặt chợ và tạp hóa, đá văng 7-Eleven khỏi sân nhà, tham vọng phủ khắp Đông Nam Á - Ảnh 2.
Vào năm 2017, Alfamart đã thiết lập hơn 340 cửa hiệu khắp Philippines và dự kiến thống lĩnh thị trường bán lẻ tại đây với 1.000 cửa hàng vào cuối năm nay.
Alfamart còn nhận được vô số giải thưởng về thành quả phát triển của mình, bao gồm giải Thương hiệu tốt nhất Indonesia, Công ty Tốt nhất trong mảng siêu thị mini từ năm 2009 đến năm 2014, giải thưởng Mô hình kinh doanh tốt nhất năm 2014 của Best Trade and Retail Industry …
Chủ tịch Thế Giới Di Động Nguyễn Đức Tài cho biết, ý tưởng chuỗi Bách hóa Xanh xuất phát từ quá trình tham quan học hỏi và tiếp xúc với những người sáng lập Alfamart.
Cùng nghiên cứu những yếu tố đằng sau bước tiến "phi mã" của Alfamart để có một cái nhìn rõ hơn về tương lai của Bách hóa Xanh của Việt Nam.
Thị trường thuận lợi của Indonesia
Theo một báo cáo của Nielsen về thị trường Indonesia, thực phẩm tươi sống hiện chiếm đến 37% chi phí sinh hoạt của người dân nước này, đặc biệt là giá trị đó sẽ còn cao hơn khi giai cấp trung lưu đang ngày một chú ý đến thực phẩm sạch. Kem, mì gói và bánh kẹo là những sản phẩm tiếp theo được người dân Indonesia ưa chuộng.
Đặc biệt hơn, không phải giá rẻ mà chính Giá trị sản phẩm mới là yếu tố đưa ra quyết định mua sắm tại Indonesia, với 97% người tiêu dùng trung lưu mong muốn nhận được sản phẩm xứng đáng với số tiền họ bỏ ra. Trong đó có 88% người tiêu dùng sẵn sàng thử nghiệm các thương hiệu mới nếu nó tốt cho sức khỏe.
Hơn một nửa (gần 53%) người tiêu dùng Indonesia có thói quen lui tới các cửa hiệu hiện đại gần nhà nhất vì tính tiện lợi của nó, và 90% người dân luôn chú tâm tìm kiếm các địa điểm với chương trình khuyến mãi độc đáo, dịch vụ chuyên nghiệp và không gian thoải mái.
Với những thuận lợi trên, các chuỗi siêu thị mini nhanh chóng trở thành nơi mua sắm số 1 cho người dân bản địa, tiếp theo đó là các đại siêu thị và sau cùng là mô hình tạp hóa và chợ truyền thống.
Các "vũ khí" lợi hại của Alfamart
Alfamart - “thần tượng” của Bách Hóa Xanh: Vượt mặt chợ và tạp hóa, đá văng 7-Eleven khỏi sân nhà, tham vọng phủ khắp Đông Nam Á - Ảnh 3.
- Có mặt khắp mọi nơi: Alfamart nhanh chóng phát triển và có mặt ở mọi khu vực dân cư khắp "đất nước vạn đảo" Indonesia, một phần nhờ vào tinh thần khởi nghiệp và nhượng quyền của giới trung lưu tại đây.
- Diện tích được tối ưu hóa: dù chỉ từ 150 tới 300 mét vuông, mỗi cửa hàng Alfamart luôn dự trữ tất cả sản phẩm mà khách hàng tìm kiếm. Diện tích nhỏ cũng giảm bớt được gánh nặng tài chính đối với những tư nhân có mong muốn nhượng quyền thương hiệu này.
- Hệ thống nhà kho khổng lồ, trải dài khắp đất nước có thể cung cấp sản phẩm cho mọi địa điểm trong thời gian ngắn nhất.
- Thương hiệu được tin tưởng. Alfamart nhờ chất lượng ổn định của mình đã luôn thu hút người dân với chất lượng sản phẩm tươi sống, giá rẻ hơn ở chợ và an toàn được đặt lên hàng đầu.
Hệ thống quản lí chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9001:2000, không chỉ sẵn sàng thôn tính thị trường nội địa mà còn là cả khu vực Đông Nam Á.
Alfamart - “thần tượng” của Bách Hóa Xanh: Vượt mặt chợ và tạp hóa, đá văng 7-Eleven khỏi sân nhà, tham vọng phủ khắp Đông Nam Á - Ảnh 4.
- Ngoài ra thì thái độ phục vụ của nhân viên cũng được Alfamart xem trọng, hàng loạt các khóa huấn luyện được tổ chức đều đặn nhằm đảm bảo nhân viên luôn cung cấp những dịch vụ thân thiện và chuyên nghiệp, kết hợp với khả năng giữ gìn không gian mua sắm hiện đại và sạch sẽ.
Một đội ngũ quản lý đơn hàng tại trụ sở cũng sẽ đảm bảo hàng hóa được kiểm soát và cung cấp đến từng cửa hàng một cách hiệu quả nhất. Alfamart không chỉ luôn sở hữu những sản phẩm tươi nhất và còn đảm bảo tình trạng "cháy hàng" sẽ không diễn ra.
- Alfamart còn tiến thêm một bước nữa với các dịch vụ cộng thêm như giao hàng và đóng gói hàng. Thêm vào đó, Alfamart còn trở thành điểm nạp tiền điện thoại, internet, TV …, hỗ trợ thẻ Visa và thậm chí là nơi nhận vay nợ tín dụng với dịch vụ tài chính WOM.
- Không ngủ quên trên chiến thắng, Alfamart liên tục nâng cấp hệ thống của mình, từ một ứng dụng có thể cập nhật nhân viên khắp cả nước các thông tin khuyến mãi chỉ trong vài giây, đến những màn hình tương tác hỗ trợ quá trình mua hàng.
Không chỉ tiện lợi mà còn là một phần trong đời sống
Alfamart - “thần tượng” của Bách Hóa Xanh: Vượt mặt chợ và tạp hóa, đá văng 7-Eleven khỏi sân nhà, tham vọng phủ khắp Đông Nam Á - Ảnh 5.
Với thế mạnh tài chính của mình, Alfamart liên tục tung ra khuyến mãi kết hợp với các thương hiệu nổi tiếng và những chương trình mang tính thời vụ như Valentine, World Cup … xuyên suốt cả năm.
Alfamart còn có nhiều khuyến mãi cho khách hàng trung thành, khuyến khích họ tích điểm qua mua sắm để đổi nhiều giải thưởng giá trị.
Về mặt cộng đồng, Alfamart còn khuyến khích phát triển kinh tế tại địa phương thông qua các chương trình hỗ trợ nhượng quyền Alfamart tại các vùng xa xôi và khó khăn, cấp nhiều suất học bổng hàng năm nhằm thu hút thêm nhân tài …
Ngoài ra thì Alfamart Indonesia còn chủ động xây dựng cho mình một hình ảnh "vì cộng đồng" với các chương trình: Alfamart Smart (Giáo dục), Alfamart Sport (Thể thao), Alfamart Vaganza (Nghệ thuật), Alfamart Care (Hoạt động từ thiện), Alfamart Clean & Green (Môi trường) và Alfamart SMEs (Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ).
Tất cả những bước đi này đã đưa Alfamart trở thành một phần trong đời sống hàng ngày của người dân Indonesia.
Tạp hóa và chợ truyền thống – rào cản đã bị vượt mặt
Alfamart - “thần tượng” của Bách Hóa Xanh: Vượt mặt chợ và tạp hóa, đá văng 7-Eleven khỏi sân nhà, tham vọng phủ khắp Đông Nam Á - Ảnh 6.
Những sạp hàng bán đủ thứ sản phẩm đã trở nên quá quen thuộc với người dân phân bố rải rác với thu nhập trung bình thấp của Indonesia. Với một diện tích rất khiêm tốn, những địa điểm này sẵn sàng cung cấp cho dân bản địa từ đồ ăn, thức uống cho đến hóa mỹ phẩm với giá thành cực rẻ.
Vì là kế sinh nhai của vô số người dân bản địa, Jakarta thậm chí yêu cầu các chuỗi siêu thị mini, trong đó có Alfamart, phải duy trì mức giá bán cao hơn tất cả mọi sản phẩm có thể tìm thấy được ở các sạp hàng địa phương. Nhưng tiếc rằng đó chỉ là một rào cản quá nhỏ đối với tương lai của bán lẻ.
Alfamart với hệ thống máy lạnh, không gian sạch sẽ, hàng hóa đa dạng và những đợt khuyến mãi "khủng" liên tục dần xóa mờ thế mạnh giá rẻ của các cửa hàng tạp hóa địa phương.
Alfamart - “thần tượng” của Bách Hóa Xanh: Vượt mặt chợ và tạp hóa, đá văng 7-Eleven khỏi sân nhà, tham vọng phủ khắp Đông Nam Á - Ảnh 7.
Trong một cuộc khảo sát gần đây, hơn 53% người dân Indonesia trả lời rằng họ ghé các siêu thị mini 1-2 lần mỗi tuần vì tính tiện dụng. Hơn 34% trả lời rằng họ mua sắm ở siêu thị mini 3-4 lần mỗi tuần, và thậm chí 13% còn cho rằng họ ghé các chuỗi như Alfamart mỗi ngày.
Thức uống đóng chai được ướp lạnh với giá thành ổn định là một trong những sản phẩm bán chạy nhất tại Alfamart, đây cũng là một trong những điểm khác biệt chính so với các tiệm tạp hóa cũ kĩ, biến chuỗi siêu thị mini vừa trở thành nơi để giải khát và nghỉ ngơi, vừa là nơi mua sắm một số vật dụng nhà bếp, thực phẩm tươi sống… rất tiện lợi.
Từ Alfamart, nhìn lại Bách Hóa Xanh
Alfamart - “thần tượng” của Bách Hóa Xanh: Vượt mặt chợ và tạp hóa, đá văng 7-Eleven khỏi sân nhà, tham vọng phủ khắp Đông Nam Á - Ảnh 8.
Có thể thấy Việt Nam cũng là một nước có tiềm năng phát triển cho mô hình siêu thị mini của Alfamart như Indonesia. Nhất là khi chính Susanto cũng có ý định nhảy vào thị trường Việt Nam vào năm 2010 nhưng lại vướng phải quá nhiều rào cản pháp lý, buộc ông phải chuyển sang Philippines.
Qua thực tế các chương trình quảng cáo, chiến lược địa điểm, thái độ phục vụ của nhân viên… Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy giá trị "chợ truyền thống với dịch vụ tốt hơn" của Alfamart đang được "sao chép" lại tại Bách hóa Xanh.
Tuy nhiên, Bách hóa Xanh đã phải điều chỉnh kế hoạch 1.000 cửa hàng vào cuối năm 2018 xuống chỉ còn 500 sau khi vấp phải nhiều khó khăn.
Dù doanh thu có phần cải thiện, nhưng Bách hóa Xanh vẫn còn một thời gian dài trước khi thật sự hoạt động hiệu quả và trở thành tương lai của ngành bán lẻ Việt Nam.
Đặc biệt là những thế mạnh cạnh tranh tiêu biểu cần được "sao chép mạnh" hơn từ thành công của Alfamart như: Hình ảnh thương hiệu, chương trình khuyến mãi, và quan trọng nhất là khả năng trở thành một phần trong đời sống người tiêu dùng.
Theo Lê Thanh Sang